Thời thịnh thế của vàng bạc, kỷ nguyên đen tối của tiền giấy

  • Như Tùng

Tiền giấy chúng ta sử dụng ngày nay là tiền tệ có chủ quyền. Nếu chính phủ các nước không thể cứu vãn thu chi tài chính của họ, khiến tình trạng tài chính liên tục xấu đi, thì thế giới sẽ bước vào kỷ nguyên khủng hoảng tiền giấy. Dấu hiệu cốt lõi là tỷ lệ lạm phát được thể hiện bằng tiền giấy của tất cả các nước đang tăng lên. Trong một thời kỳ như vậy, tiền giấy không thể mang tín dụng, và kết quả là hình thành một kỷ nguyên thiếu tín dụng.

Vàng
Tiền giấy đã giảm giá đáng kể so với vàng nói chung. (Ảnh minh họa: Misunseo/Shutterstock)

Tỷ lệ nợ của Chính phủ Mỹ dự kiến ​​sẽ vượt 140% vào cuối năm, rõ ràng đây là mức khủng hoảng không bền vững, cốt lõi của cuộc khủng hoảng nợ là khủng hoảng đồng đô la Mỹ. Tình hình nợ của các nước khu vực đồng Euro như Ý còn tồi tệ hơn nhiều so với Mỹ. Vấn đề của đồng Euro cũng nghiêm trọng không kém. Dưới tác động của dịch bệnh, tỷ lệ nợ của các nước phát triển đang tăng vọt, nghĩa là tương lai của tất cả các loại tiền giấy đều rất ảm đạm. Điều này khiến cuộc khủng hoảng tiền giấy trở thành vấn đề về thời điểm và mức độ nghiêm trọng của nó!

Đại khái tình hình toàn cầu trong tương lai có thể được so sánh với những thay đổi do Liên Xô tan rã mang lại, nhưng mức độ nghiêm trọng là khác nhau. Nguyên nhân sâu xa là quá trình Liên Xô tan rã là quá trình sụp đổ của thu chi tài chính, còn kết quả của đại dịch là thu chi tài chính của các nước khác nhau bị suy giảm nghiêm trọng. Do đó, hai chuyện này có thể so sánh với nhau ở một mức nhất định.

Ngày 25/12/1991, Gorbachev từ chức. Ngày hôm sau, Xô Viết Tối cao của Liên Xô tuyên bố chấm dứt sự tồn tại của nó, đồng nghĩa với việc Liên Xô tan rã. Vào ngày 1/11/1990, tỷ giá hối đoái của đô la Mỹ với đồng Rúp là 1: 1,8, đến cuối năm 1991, đã thành 1: 170, có nghĩa là đồng rúp đã mất giá 98,94% trong năm. Trong thời kỳ đồng rúp mất giá mạnh, người ta có thể sử dụng đồng đô la Mỹ tương đối ổn định làm chuẩn để đo giá trị của đồng Rúp.

Nhưng trong tương lai, giá trị của tất cả các loại tiền tệ, bao gồm đồng đô la Mỹ và đồng Euro, đều sẽ mất giá nhanh chóng. Mọi người sẽ lấy gì làm chuẩn vào thời điểm đó? Tất nhiên, “tiêu chuẩn” được đa số người dân trên thế giới chấp nhận sẽ được dùng làm chuẩn. Mặc dù các nhóm người khác nhau sẽ có những sở thích riêng, nhưng “tiêu chuẩn” thường được đa số người dân trên thế giới chấp nhận vẫn là vàng. Tương lai chắc chắn sẽ là sự mất giá tập thể của tất cả các loại tiền giấy so với vàng, đây là hiện tượng của thị trường tăng giá vàng hiện nay.

Cần lưu ý rằng khi hầu hết tất cả các loại tiền giấy trên thế giới không thể mang tín dụng và mất giá nhanh chóng, tín dụng trên thị trường sẽ cực kỳ khan hiếm và người ta không biết dùng (hoặc chấp nhận) thứ gì làm phương tiện tín dụng (Trong quá khứ, tiền giấy là phương tiện trung gian trong quá trình mua và bán). Lúc này không chỉ vàng, mà còn nhiều thứ khác sẽ phản ánh các thuộc tính tiền tệ, được mọi người sử dụng làm phương tiện tín dụng, chẳng hạn các kim loại quý khác như bạc, lương thực, đồng, bạch kim, rhodium và thậm chí cả tiền kỹ thuật số. Đây là hiện tượng tất yếu phản ánh ra trong thời kỳ thiếu tín dụng xã hội sau khi tiền giấy mất tín dụng.

Do đó, trong những năm 1940 của thời kỳ tiền tệ hợp pháp của Trung Quốc, với sự mất giá nhanh chóng của đồng tiền pháp định và không thể tiếp tục đảm nhận trách nhiệm tín dụng, tiền tệ hợp pháp không thể đại diện cho sự giàu có, vàng mới đại diện cho sự giàu có, trên thị trường vàng bị tranh mua điên cuồng, giá vàng tăng như tên lửa. Đồng thời, các thương gia ở Thượng Hải bắt đầu sử dụng đồng bạc và gạo để trả lương cho nhân viên, ở đây, đồng bạc và gạo cũng được coi là tiền tệ và đảm nhận vai trò của một phương tiện giao dịch.

Một khi trạng thái tương tự xảy ra trong tương lai, sẽ không ai biết mối quan hệ giá cả giữa vàng, bạc, ngũ cốc, đồng, bạch kim, rhodium và tiền tệ kỹ thuật số (mô hình định giá đa biến quá phức tạp). Chỉ khi thông qua giao dịch mới có thể hình thành.

Nhưng so sánh giá giữa vàng và bạc vẫn có thể là một sự chỉ dẫn, đây là chủ đề cốt lõi của bài viết này.

Trong lịch sử, vàng và bạc đã được sử dụng làm tiền tệ từ lâu, nhưng với sự phát triển của việc lưu thông tiền giấy, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng sản xuất bạc trong thời gian dài sau quá trình toàn cầu hóa kinh tế (bạc đã mất đi một phần khan hiếm mà sự khan hiếm là yêu cầu cơ bản của tiền tệ), khiến thuộc tính tiền tệ của bạc suy giảm. Đây là nguyên nhân sâu xa khiến giá vàng và bạc liên tục giảm trong 4 thập kỷ qua.

Nhưng một khi tiền giấy bị mất lòng tin trên quy mô lớn, tín dụng trên thị trường sẽ cực kỳ căng thẳng, thiếu hụt. Không còn nghi ngờ gì nữa, thứ đầu tiên kích phát thuộc tính tiền tệ nên là vàng và bạc. Hầu hết mọi người đều không hề nghi ngờ gì về điều này. Vào thời điểm này, giá vàng và bạc nên ở mức nào? Không ai đưa ra được câu trả lời chính xác ở đây, nhưng bạn có thể sử dụng các manh mối sau để tham khảo:

Thứ nhất, sản lượng bạc hàng năm hiện tại gấp khoảng 8-10 lần vàng, có nghĩa là tỷ lệ vàng trên bạc phải gần 1: 8-10;

Thứ hai, nhà phân tích vàng và bạc Austrolib tin rằng từ tiền lệ lịch sử, chúng ta có thể rút ra hai định luật. Đầu tiên, nếu bạc được sử dụng trực tiếp làm tiền tệ, thì tỷ lệ vàng và bạc là khoảng 1:15. Thứ hai, khi lạm phát trở nên nghiêm trọng, như trong các năm từ năm 1918-1919 và năm 1979-1980, tỷ lệ vàng-bạc sẽ nhanh chóng giảm xuống mức thấp này. Ông Austrolib đã suy luận dựa trên các nguyên tắc và dữ liệu nêu trên và phán đoán rằng nếu tỷ lệ lạm phát tăng vọt lên 15-20%, tỷ lệ vàng-bạc có thể một lần nữa tiến tới mức 1:15.

Vì sao Austrlib tin rằng khi tỷ lệ lạm phát tăng vọt lên 15-20%, tỷ lệ vàng trên bạc sẽ tiếp cận 1:15?

Nguyên nhân sâu xa nằm ở nguyên lý nêu trên, dưới mức lạm phát như vậy, người dân trên thị trường không còn tin vào tiền giấy nữa, tiền giấy không thể mang tín dụng nữa, và tín dụng trên thị trường sẽ đạt mức cực kỳ khan hiếm vàng bạc. Thuộc tính của vàng và bạc sẽ được kích thích đầy đủ. Lúc này, tỷ lệ vàng và bạc sẽ tiệm cận với tỷ lệ mà các thuộc tính tiền tệ của vàng và bạc nên hiển thị. Thực ra nguyên tắc này đã được nêu ở phía trên nhưng chỉ là mô tả chung chung. Khi tín dụng của tiền giấy giảm quá nhanh (lạm phát quá cao) thì thuộc tính tiền tệ của vàng và bạc sẽ bị kích thích, tỷ lệ vàng trên bạc sẽ tăng nhanh, tỷ lệ leo thang lúc đó là gần 1:20.

Một số người quan tâm đến câu chuyện anh em nhà Hunt thao túng thị trường bạc vào những năm 1970. Đây là câu chuyện một tay che cả bầu trời điển hình nhất. Đối với một thị trường toàn cầu như vậy, khó có cá nhân nào có thể thao túng được nếu không tuân theo xu hướng vốn có của thị trường. Lý do khiến anh em nhà Hunt thao túng thành công là tuân thủ các yêu cầu vốn có của xu hướng này. Nguyên nhân sâu xa vào thời điểm đó là do hai cuộc khủng hoảng dầu mỏ đã khiến đồng đô la Mỹ mất giá với tốc độ nhanh chóng, tình trạng thiếu tín dụng trên thị trường cực kỳ thiếu hụt, khiến tỷ lệ vàng và bạc quay trở lại tỷ lệ do thuộc tính tiền tệ của vàng và bạc quyết định. Tỷ giá tiền tệ ở đây thể hiện tỷ giá truyền thống.

Tỷ lệ giá vàng và bạc hiện nay nên được nhìn nhận như thế nào? Đó là tỷ lệ giá giữa giá vàng phản ánh các thuộc tính của tiền tệ và giá bạc được xác định bởi việc cùng tồn tại của các thuộc tính tiền tệ và hàng hóa. Thành phần của bạc phản ánh các thuộc tính của hàng hóa càng cao thì giá vàng và bạc càng giảm. Đây là hiện tượng đã biểu hiện trong bốn thập kỷ qua.

Một khi tỷ giá vàng và bạc gần với tỷ lệ được xác định bởi tài sản của tiền tệ, tất nhiên sẽ thuộc về thời đại đen tối của tiền giấy, nhưng đó lại là thời thịnh thế của vàng và bạc, đặc biệt là bạc!

Kết luận ở đây là yếu tố chính quyết định tỷ giá vàng và bạc là mức độ tín dụng của tiền giấy, khi tiền giấy mất tín dụng (lạm phát tiếp tục xấu đi) có nghĩa là giá vàng và bạc đã tăng nhanh chóng, trở lại với tỷ giá tiền tệ truyền thống.

Câu hỏi lớn nhất hiện nay là tỷ lệ lạm phát của Mỹ liệu có lên tới 15-20% trong ba năm tới? Câu hỏi này đã trở thành vấn đề cốt lõi. Cá nhân tôi nghĩ là có thể xảy ra, bởi vì đại dịch đã phá hủy hoàn toàn thu chi tài chính của Hoa Kỳ,  tỷ lệ nợ của Chính phủ Hoa Kỳ đã tăng lên mức không bền vững, đó là mức độ của cuộc khủng hoảng đồng đô la Mỹ (nghĩa là đồng đô la Mỹ cần sụt giá mạnh). Tuy nhiên điều quan trọng hơn là đại dịch đã phá hoại nghiêm trọng các hoạt động sản xuất! Cú sốc này ít nhất cũng không kém tác động tàn phá của hai cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào những năm 1970 đối với nền kinh tế và tài chính Mỹ, hoàn toàn có khả năng tỷ lệ lạm phát trong tương lai sẽ đạt hoặc vượt mức vào khoảng năm 1980.

Như Tùng

Related posts